Để tạo ra da thuộc phải qua giai đoạn sơ chế chuẩn bị cho tấm da sạch,
mềm, và dễ thẩm thấu các chất hóa học hay tự nhiên sẽ được sử dụng để
biến tấm da sống thành da thuộc để dùng trong thời trang, may mặc, và
các ngành công nghiệp khác. Trước tiên, da được lóc cẩn thận khỏi các
thớ thịt và mỡ, rồi được phân loại cẩn thận theo chủng loại da và chất
lượng. Sau đó da được ngâm để giũ sạch các chất bẩn. Tiếp theo, 1 loại
vôi nước được sử dụng để tẩy lông đồng thời loại bỏ 1 số chất đạm, sợi
trong da và thay đổi ít nhiều cấu trúc của da để da sẽ thẩm thấu tốt hơn
những hóa chất sẽ được sử dụng trong công đoạn kế tiếp. Tùy theo nơi
sản xuất, các chất hóa học hay các chiết xuất từ thiên nhiên sẽ được sử
dụng để làm da mềm hơn, dai bền hơn, chống thấm nước tốt hơn, và giữ
không bị thối rữa theo thời gian. Tiếp theo, da được phơi ráo nước, bôi
dầu, phơi khô, nhào cho mềm và đều dầu, cán phẳng, và nhuộm màu theo nhu
cầu.
* Nguyên
liệu sản xuất.
Da nguyên
liệu dùng trong công nghiệp sản xuất thuộc da là các loại da động vật như:
trâu, bò, lợn, cừu, dê, ngựa. ngoài ra còn sử dụng các loại da động vật quy
hiếm như: hươu, nai, hổ, cá sấu, trăn, rắn, … nhưng số lượng không lớn.
* Cấu tạo da
sống.
Trong công
nghiệp thuộc da, việc chia diện tích trên một tấm da được quy định theo các
vùng như sau:
1. Phần mông lưng
2. Phần đầu vai
3. Phần bụng
Phần mông
lưng: là phần trung tâm của da, chiếm 50-60% diện tích con da. Phần này các
chùm sợi ở lớp mạng lưới sắp xếp chặt chẽ, có độ bền cơ học cao, đây là phần
chất lượng nhất trong toàn bộ tấm da.
Phần đầu
vai: độ bền cơ lí thấp do các chùm sợi phát triển yếu, cấu tạo lỏng lẻo.
Phần bụng:
là phần biên của con da, các chùm sợi colagen mảnh mai sắp xếp lỏng lẻo và gần
như song song với bề mặt vì vậy tính chất xơ lí kém thua phần mông lưng và phần
đầu vai.
Thành phần
hoá học chính của da sống là: nước, protit, mỡ, chất khoáng, một lượng nhỏ men
và sắc tố. Hàm lượng các chất trong thành phần do thường không cố định mà biến
đổi theo giống, tuổi, loài, điều kiện sinh trưởng của con vật và từng vị trí
trên diện tích da.
- Nước trong da tươi chiếm khoảng 60-70% và tồn tại dưới hai
dạng là: mước tự do nằm xen kẽ trong các sợi da ( chiếm 60% lượng nước trong
da); nước kết hợp nằm trong cấu trúc của da khó thay đổi được.
- Protit: là thành phần cơ bản của da. Trong da sống đã sấy khô, ptotit chiếm
khoảng 95% trọng lượng da. Protit tồn tại dưới hai dạng: Protit không có cấu
trúc dạng sợi như anbunia, globulin, muxin và mucoit; Protit có cấu trúc dạng
sợi như collagen.
Trong quá
trình thuộc da, nhiều protit không có cấu trúc dạng sợi và Karetin được loại bỏ
hoàn toàn.
* Bảo
quản nguyên liệu.
Thông thường
các loại da tươi này trước khi đưa vào thuộc phải được bảo quản cẩn thận vì các
lò mổ, các điểm giết mổ không thể cung cấp một cách đều đặn, thường xuyên lượng
da lớn cho các nhà máy thuộc da, mặt khác thường quy định trong một lô da xuất
thuộc phải có đồng đều về chủng loại, trọng lượng, chất lượng và phương pháp
bảo quản sau khi giết mổ.
Mục đích của
bảo quản là loại bỏ sự phá hoại của các vi khuẩn hoặc hạn chếchúng. Có thể thực
hiện bằng cách giảm lượng nước trong da, hoặc hạ thấp độ pH đến giá trị pH của
axit mạnh và cũng có thể thực hiện qua việc hạ nhiệt độ xuống dưới 0
0
* Các phương
pháp bảo quản da tươi:
1 .Ướp muối (phương pháp thông dụng nhất).
2. Phơi khô.
3. Ướp muối và phơi khô.
4. Axit hoá.
5. Cho vào phòng lạnh.
+ Bảo quản bằng muối: da tươi được ngâm vào muối hoặc dung dịch muối bão hoà. Sự hấp thụ muối đạt cực đại sau 12 giờ đối với dung dịch muối bão hoà và 24 giờ đối với muối hạt, sau đó là quá trình loại nước ra khỏi da. Trong quá trình này da mất nước và hấp thụ muối, lượng nước mất lớn hơn lượng muối hấp thụ ( với NaCl).
1 .Ướp muối (phương pháp thông dụng nhất).
2. Phơi khô.
3. Ướp muối và phơi khô.
4. Axit hoá.
5. Cho vào phòng lạnh.
+ Bảo quản bằng muối: da tươi được ngâm vào muối hoặc dung dịch muối bão hoà. Sự hấp thụ muối đạt cực đại sau 12 giờ đối với dung dịch muối bão hoà và 24 giờ đối với muối hạt, sau đó là quá trình loại nước ra khỏi da. Trong quá trình này da mất nước và hấp thụ muối, lượng nước mất lớn hơn lượng muối hấp thụ ( với NaCl).
Khi bảo quản
bằng muối hạt, trọng lượng giảm: 13-19%.
Khi bảo quản
bằng dung dịch muối bão hoà trọng lượng giảm: 9-12%.
Da bảo quản
bằng phương pháp dung dịch muối bão hoà ít khuyết tật hơn và định mức da thành
phẩm tăng từ 1-2% so với phương pháp muối hạt.
Muối dung ở
đây là natri clorua NaCl, nó có khả năng giữ lại khí cacbonic và không cho phép
hoà tan trong môi trường dư oxy.
Na+
ngăn sự phát triển của vi khuẩn, còn Ca+ và Mg+ thì ngược
lại vì vậy NaCl phải sạch hoặc chứa ít CaSO4 , MgSO4 ,
FeSO4 và Al2O3 . Ngoài ra có thể thêm chất
ngăn cản sự hoạt động của vi khuẩn như axit boric, naftalina, cacbonat natri,
bêta maftol, fluosilicat natri.
Da sau khi
mổ cần phải được rửa sạch phần máu trên da, phần bản sau đó vắt lên cho ráo
nước và muối( muối ở nơi tránh ánh sáng mằt trời trực tiếp hoặc ẩm ướt, phải
thoáng mát).
Da được muối
trên sàn gỗ hoặc sàn ximăng có độ nghêng 3-50, trải phẳng con da,
mặt lông xuống dưới, mặt thịt len trên, sau đó sát muối thật đều và trải con
khoác lên trên, độ cao khoảng 5-6 m/mẻ.
Sau 5-7 ngày
muối, lượng muối cần dùng là 10-14% so với trọng lượng da tươi.
+ Phương
pháp phơi khô: phơi khô phải rừ từ, không bức khô ( phương phấp này chỉ dùng
cho thú nhỏ, và thú săn bắn).
Thuận lợi:
không dùng hoá chất, thời gian bảo quản lâu, và chất lượng đảm bảo.
Nhược điểm:
quá trình hồi tươi khó đạt như công nghệ yêu cầu, da lỏng mặt và dòn cục bộ.
+ Bảo quản
băng phương pháp phơi khô và ướp muối: ướp 1/2 lượng muối sau đó phơi khô đến
lượng nước từ 18-20%. Phương pháp này ít dùng.
+ Bảo quản
băng phương pháp phòng lạnh: chỉ áp dụng cho những nước vùng bắc bán cầu khi mà
không còn phương pháp nào để bảo quản. Phương pháp này cho chất lượng da thấp,
độ bền kéo đứt thấp, gẫy mặt do nhiệt độ và tốc độ làm lạnh quá lớn.
+ Bảo quản
bằng axit: đây là phương pháp bảo quản da trần ( da tẩy lông), sử dụng 100%
dung dịch nước, 15-20% NaCl và 1,5-2% HCl hoặc H2SO4 so
với trọng lượng da tươi.
* Quy trình
sản xuất thuộc da.
Chia thành 3
phần chính:
1. Chuẩn bị thuộc
2. Thuộc
3. Hoàn tất
Sơ đồ công nghệ thuộc da:
1. Chuẩn bị thuộc
2. Thuộc
3. Hoàn tất
Sơ đồ công nghệ thuộc da:
* Chuẩn bị
thuộc.
Công đoạn
này có nhiệm vụ loại bỏ những phần không cần thiết như biểt bì, mô liên kết
dưới da …, tạo cho sự liên kết của chất thuộc với sợi collagen trong giai
đoạn thuộc.
Tất cả
nguyên liệu trước khi và thuộc phải lựa chọn theo loại, trọng lượng, phương
pháp bảo quản để có chế độ xử lí thích hợp.
Các khâu
công nghệ trong quá trình chuẩn bị thuộc có thể khác nhau, tuỳ theo loại nguyên
liệu, phương pháp bảo quản và mục đích sử dụng da thành phẩm.
Những công
đoạn như: hồi tươi, tẩy lông, ngâm vôi, tẩy vôi, làm mềm axit hoá được áp dụng
cho tất cả phương pháp thuộc. Riêng thuộc da để có da sử dụng trong công
nghiệp, công đoạn làm mềm, axit hoá không thực hiện hoặc thực hiện ở mức độ
thấp.
a. Hồi tươi.
a. Hồi tươi.
Mục đích:
nhằm phục hồi lại lưộng nước có ở trong da bị mất đi do quá trình bảo quản ( từ
60-70% xuóon 35-45% đối với da bảo quản bằng muối và giảm đến 18% đối với da
bảo quản phơi khô), đồng thời làm cho cấu trúc sợi trở lại như trạng thái ban
đầu.
Với da bảo
quản bằng phương pháp phơi khô thì hồi tươi khó khăn hơn phương pháp uớp muối
do vậy cần chú ý ngay từ công đoạn này. Da hồi tươi chủ yếu kiểm tra bằng cảm
quan, đạt yêu cầu khi mông có độ mềm mại như do kkhi còn tươi. Nếu kéo dài thời
gian hồi tươi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn hoạt động, da dễ bị tuột
lông, mùi hôi khó chịu và có khả năng làm cho một phần collagen trong da bị
phân huỷ. Ở công đoạn
này phải kiểm tra thời gian và nhiệt độ. Các nước châu Âu thường sử dụng mước ở
công đoạn này với nhiệt độ là 26-270C và hoá chất cần thiết để ngăn
chăn sự phát triển của vi khuẩn.
Ở nước ta,
do có sự phân biệt rõ ràng mùa đông và mùa hè nên công đoạn hồi tươi khó khăn
hơn vì vậy để đảm bảo chất lượng trong hồi tươi phải để nhiệt độ của nước từ
26-270C. Da bảo quản phổ biến là ướp muối do vậy cần hồi tươi như
sau:
1. Cân da
nguyên liệu ( tính trọng lượng da muối).
2. Dùng
150-200% nước cho vào foulons.
3. Nhiệt độ
nước là 26-270C.
Cho da
nguyên liệu vào foulons quay 20 phút, thoát nước bẩn ra ngoài, chắt kĩ và tiếp
tục hồi tươi bằng cách bổ sung 150-200% nước vào foulons, tốc độ quay 4
vòng/phút, quay 30 phút sau đó quay đảo 10 phút/giờ.
Yêu cầu da
phải ngập nước, thời gian từ 5-12 giờ, phụ thuộc và hoá chất sử dụng trong quá
trình hồi tươi, hoá chất ở đây không có tính thuộc vì nước ảnh hưởng đến công
đoạn tẩy lông làm da cứng.
b. Tẩy lông, ngâm vôi.
b. Tẩy lông, ngâm vôi.
Mục đích:
tẩy sạch lớp lông, thượng bì và loại bỏ lớp mỡ dưới da. Đây là công đoạn phức
tạp, hoá chất tẩy lông ngâm vôi có tác dụng phá huỷ lớp chân lông và lớp biểu
bì trên mặt da đồng thời làm trương nở da, nên când phải có sự kiểm tra chặt
chẽ việc sử dụng hoá chất, nước, nhiệt độ, thời gian. Trong quá trình tẩy lông
ngâm vôi, sự tác động của kiềm làm sạch lông và chân lông là sunfuanatri đóng
vai trò quan trọng, pH tẩy chân lông là 12-13. Trong các loại kiềm, sử dụng vôi
là tốt nhất, vôi có độ hoà tan giới hạn là 0,15%, pH=12,6. Nếu sử dụng NaOH thì
sẽ phá huỷ sợi collagen trong da vì pH của nó quá cao. Nếu ngâm vôi quá mức,
sợi collagen sữ bị phá huỷ, da bị hư hỏng. Ngược lại ngâm vôi chưa đạt, da
thành phẩm sữ bị cứng do không trương nở hết.
Ngày nay với
công nghệ hiện đại, ngâm vôi được tiến hành trong foulons với vận tốc là 3-4
vòng/phút, thờigian là 12-18 giờ. Trong quá trình ngâm tác động cơ học nhiều sẽ
làm cho sản phẩm có độ xốp lớn, so vậy chỉ cần quay đảo 10 phút/giờ nhằm mục
đích đảo đều dung dịch để thấm sâu và da.
Nước sử dụng
rửa da là nước cứng, trên bề mặt da thạo thành lớp CaCO3 và da thành
phẩm có chất lượng kém. Để tránh hiện tượng này, khi rửa cần thêm 0,5% lượng
vôi so với lượng da.
Quy trình
tẩy lông ngâm vôi: Thực hiện trong foulons, trọng lượng nước và hoá chất tính
theo lượng da muối nước 200% cho tiếp xúc với hỗn hợp 1,5-2%Na2S
và vôi tôi từ 10-15%, quay 60 phút. Sau đó, mỗi giờ quay đảo 5 phút, để qua
đêm, thời gian của công đoạn là 12-24 giờ.
*Chú ý: lượng vôi cho và foulons chia làm
2 lần, mục đích là tăng pH từ từ, có như vậy mặt da không bị nhăn húm, Với các
mặt hàng khác như da bọc nệm, da găng, quần áo … cần ngâm vôi sao cho sấu trúc
sợi da trương nở hơn và loại bỏ hoàn toàn cac abunin và các colagen không có
cấu trúc sợi, có như vậy sản phẩm mới có độ xốp nhẹ.
c. Xẻ mỏng.
c. Xẻ mỏng.
Tạo cho con
da có độ dày đồng đều trong tất cả các tấm da theo yêu cầu sử dụng. Xẻ mỏng
được thực hiện trên máy xẻ. Trong khi xẻ phải kiểm tra độ dày của da cắt sao
cho phù hợp với từng mục đích sử dụng. Chẳng hạn: da sau khi ngâm vôi có độ dày
mặt cật là 4 mm, sau khi thuộc còn 2,8 mm, sau khi bào là 2,6 mm và đến da hoàn
thành có độ dày 2,3 mm.
d. Tẩy vôi, làm mềm.
d. Tẩy vôi, làm mềm.
Da sau khi
tẩy lông ngâm vôi, các hoá chất kiềm trong do cần được loại bỏ, nếu không chúng
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng da thuộc ( thuộc Crôm và kể cả thuộc tanin thảo
mộc).
Tẩy vôi và
làm mềm thường được tiến hành trong foulons, quá trình làm mềm được tiếm hành
sau khi đã tẩy vôi. Ngày nay thường dùng foulons có tốc độ cao hơn tốc độ thùg
quay để hồi tươi và tẩy lông, cụ thể là 5-6 vòng/phút, nhằm nâng cao khả năng
tẩy của các tác nhân tẩy. Tuỳ theo mặt hàng, việc tẩy vôi có thể dùng các tác
nhân khác nhau. Đối với da có độ mềm cao, cần loại bỏ hết các ion Ca2+
có trong do sau quá trình tẩy lông ngâm vôi. Nhằm làm giảm lượng tiêu hao chất
tẩy vôi và hiệu quả tẩy đạt cao, trướckhi tẩy, cần rửa để loại bỏ bớt chất kềm
không liên kết trong da. Nhiệt độ tẩy vôi làn mềm từ 35-380C, tối ưu
là 370C vì ở nhiệt độ này giữ được an toàn cho sợi da.
Ngày nay
việc dùng cửa khép kín để rửa trở thành phổ thông và có hiệu quả tẩy rửa cao,
cụ thể là 90% lượng kiềm không liên kết bị loại bỏ sau 3 lần rửa riêng biệt.
Hoá chất
dùng để tẩy vôi là các muối axit như amoni sunfat (NH4)2SO4,
amoni clorua NH4Cl hay muối của axit hữu cơ yếu. Khi dùng (NH4)2SO4
thì tạo thành CaSO4 khó hoà tan hơn CaCl2 khi dùng NH4Cl
để tẩy. Nhận biết quá trình tẩy hoàn toàn hay không người ta dùng chỉ thị màu
để kiểm tra mứcđộ tẩy vôi. Nếu nhỏ vài giọt phenolphtalein vào mặt da mà không
có màu gì là quá trình tẩy vôi được thực hiện một cách triệt để (pH=8,3), nếu
có màu hông hay đỏ thì quá trình tẩy vôi chưa hoàn toàn triệt để.
Quá trình
xuyên thấu của tác nhân khử vôi vào các phần dày của tấm da sẽ chậm và khó khăn
hơn. Đối với da thuộc có độ mềm mại, tác nhân tẩy vôi cần phải xuyên vào trong
da sâu hơn. Nếu da thuộc đanh chắc thì quá trình tẩy vôi không cần thực hiện
một cách triệt để.
Mục đích làm
mềm là tạo cho da có mặt cật nhẵn, loại toàn bộ sự trương nở và lớp ghét trên
mặt cật. Trong quá trình làm mềm, tác nhân làm mềm sẽ tác dụng đến các collagen
không có cấu truc như sợi đàn hồi. Nhằm tăng sự mềm mại, độ đàn hồi của mặ cật,
việc này có y nghĩa lớn đố với da thuộc Crôm – mặt hàng làm áo khoác, mũ giày,
găng tay, bọc đệm; nhưng không có y nghĩa đối với các loại da cứng như da đế
giày, da dùng cho công nghiệp. Trong thực tế, quá trình làm mềm được thực hiện
trong cùng foulons dùng để tẩy vôi và cùng trong một bể của công đoạn tẩy vôi.
Quá trình làm mềm là quá trình tác động của men lên một số cấu trúc của da - đó
là phát minh của tiến sĩ Rohn người Đức - loại men này là men phân giải ( men
Pancreaza) chúng được chuyển hoá theo hoạt động của men và được trộn và mùn cưa
hoặc trộn với các tác nhân tẩy vôi khác.
Yếu tố nhiệt
độ rất quan trọng đối với quá trình làm mềm, tối ưu là 370C, vì
nhiệt độ này thích hợp cho hoạt động của men; pH cũng có vai trò quan trọng, pH
tối ưu là 8,3.
Việc làm mềm
cũng đồng thời tăng sự đàn hồi của da thành phẩm. Mếu quá trình làm mềm da qua
lâu, quá mạnh sữ làn giảm độ bền lực chịu kéo. Tuỳ theo mục đích sử dụng các
loại da mà chế độ làm mềm khác nhau. Phương pháp kiểm tra quá trình làm mềm
băng cách gấp da lại và vắt để cho bọt khí đi qua.
* Thuộc da.
Thuộc da là
quá trình mà qua đó da trần được chuyển hoá thành da thuộc với những đặc tính
tối ưu của nó như chịu nhiệt độ cao, không thối rữa khi tiếp xúc với nước và
các môi trường khác, chịu được tác động phá hoại của vi sinh vật và có độ thấu
khí cao.
Hoá chất
dùng để thuộc là kali bicrômat: K2Cr2O7. Khi
thuỷ phân tạo thành muối kiềm crôm:
K2Cr2O7
+ 3H2SO4 + R —› K2SO4 + 2CrOHSO4
+ RO + H2O
R là chất
khử ( gluco hoặc Na2S2O4). Phản ứng tạo nên
hợp chất hợp chất hyđrôxyt là muối kiềm Crôm, dung dịch mang tính axit. Quá
trình thuỷ phân có thể tiếp tục nếu ta cho axit vào dung dịch khi dùng quá
trình thuỷ phân và có thể đưa sản phẩm của quá trình thuỷ phân trở về dnạg
sunfat crôm.
Các phân tử
phức crôm có thể tại nên các phần tử phức lớn hơn, làm cho độ kiềm và tính
thuộc biến đổi.
Một số tính
chất của muối kiềm crôm:
tt
|
Muối crôm
|
% độ hoà tan
|
Tính thuộc
|
Độ hoà tan
|
1
|
Cr2(SO4)3
|
0
|
Kém
|
Rất tốt
|
2
|
Cr(OH)SO4
|
33
|
Tốt
|
nt
|
45
|
Mạnh
|
nt
|
||
3
|
Cr2(OH)4SO4
|
46
|
Bề mặt
|
Không tan
|
4
|
Cr(OH)3
|
100
|
Không
|
nt
|
Độ kiềm là
mức đo tính thuộc của muối crôm; tăng độ kiềm, tính thuộc và lượng muối Crôm
hấp thụ và da tăng, đồng thời cũng tăng nhóm hyđrôxyt liên kết trong phức và
làm tăng kích thước phức Crôm trong dung dịch và làm giảm khả năng xuyên của
muối crôm vào bên trong da, cho nên ở giai đoạn này dùng dung dịch Crôm có độ
bền kiềm thấp tạo khả năng xuyên của chúng vào da sâu hơn.
Các anion
khác có thể đi vào phức crôm (các gốc cacboxyl) làm thay đổi tính thuộc, thay
đổi thành phần của dung dịch điều chế từ bicromat ít hơn, do nguy hiểm của một
số hoá chất như axit cromic đối với sức khoẻ người sản xuất.
Việc dùng
tác nhân khử là glucoza hoặc hợp chất hữu cơ khác, tạo nên crôm với nhiều phân
tử hữu cơ, tuỳ theo thành phần của chất khử.
Ví dụ:
Ví dụ:
Na2Cr2O7
+ H2SO4 H2CrO4
+ Na2SO4 + H2O + nhiệt…..
Cr2(SO4)3 + Na2SO4 + H2O
+ nhiệt
Ở pH thấp
hơn, quá trình xuyên của chất thuộc Crôm vào trong da sẽ tốt hơn và nhanh hơn
song tính thuộc Crôm kém hơn. Tăng pH, tăng khả năng thuộc và tạo sự liên kết
của chúng với các collagen mà không gây dết tủa. Điều quan trọng trong công đoạn
nâng kiềm là mức độ năng sao cho tác dụng thuộc đồng đều, phòng ngừa kết tủa
Crôm có thể xẩy ra. Natri cacbonat có thể dùng để nâng kiềm, độ kiềm của dung
dịch sẽ tăng ở dạng dịch cấp theo bậc thang.
Hiện nay,
người ta dùng các tác nhân trung hoà khác nhau, tác dụng nâng kiềm của chúng
tăng lên một cách từ từ như: Mentrigan MOG, khoáng đôlômit.
Để tiếp công
đoạn sau, ta cần kiểm tra độ xuyên thấu của axit hoá (sau 2 giờ quay), sau khi
đạt ta cho: 6-8% Cr2O3 dạng bột, quay 6-8 giờ, thử độ
xuyên thấu sau 3-4 giờ, cho tiếp 0,5-1% Mentrigan MOG, quay 1-2 giờ. Thử nhiệt
độ và pH.
Đối với da
phèn cần dùng chất chống mốc để phòng mốc, thường dùng 0,3-0,5% Preventol WB.
* Hoàn thành
da thuộc.
Da sau khi
thuộc độ ẩm còn quá cao 60-65%, chưa có độ mềm dẻo cần thiết, bề mặt thô và dễ
ngấm nước. Vì thế sau khi thuộc nhất thiết phải qua công đoạn chỉnh lý.
Với các loại
da khác nhau, yêu cầu khác nhau trong quá trình chỉnh lý. Tuy nhiên, các loại
da sau khi thuộc đều có những khâu cơ bản sau: ủ đống, ép nước, bào mỏng, trung
hòa ( đối với da thuộc Crôm), nhuộm ăn dầu, sấy khô, để cho da có độ ẩm là
12-15%, sau đó đem vò mềm, trau chuốt, mục đích làm cho da thuộc đồng đều về
mặt màu sắc, khắc phục những khuyết tật trên bề mặt nhằm đáp ứng mục đích sử
dụng đa dạng của người tiêu dùng.
Trong công
nghiệp thuộc da, quy trình thuộc đóng vai trò quyết định của sản phẩm thì trau
chuốt có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tiêu dùng vì rằng: chỉ tiêu thẩm mĩ
của da thuộc crôm với các đồ dùng chế biến từ da được thể hiện chủ yếu ở màu
sắc, độ bóng, độ bền nhiệt, bền uốn gập của lớp màng trau chuốt. đặc biệt là
lớp màng trau chuốt có vai trò quyết định giá trị của tấm da thuộc khi lưu
thông trên thị trường. Vì vậy khi trau chuốt đòi hỏi các nhà công nghệ phải tìm
hiểu, nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó phân loại, lựa chọn hóa chất,
phương pháp trau chuốt cho phù hợp với công dụng từng mặt hàng mà người tiêu
dùng đòi hỏi.
Da nguyên
liệu có một số khuyết tật hình thành khi con vật còn sống hoặc hình thành qua
lột mỏ, khi bảo quản. những khuyết tật mày ảnh hưởng đến chất lượng của da
thuộc và da hoàn thành, do đó trước khi trau chuốt phải phân loại da thành 2
loại: loại để nguyên mặt cật ( mặt tự nhiên) và loại phảt cải tạo mặt cật.
Với loại để
nguyên mặt cật, sau khi nhuộm ăn dầu được đưa vào trau chuốt. Thành phần trau
chuốt bao gồm 2 lớp chính:
+ Lớp cơ sở:
chất kết dính là thành phần chính để tạo màng, như chất acrylic butadien,
polỷuetan, các chất pigment ( những oxit kim loại) mang màu…, dầu mỡ, dung môi
hữu cơ tại màng có độ mềm mại và độ bóng nhất định. Ngoài ra còn có một số hợp
chất làm dày khác.
+ Lớp phủ
trên cùng: chủ yếu dùng Lacquers, nitroxenlulo, polymetan hòa tan dung môi hữu
cơ. các hợp chất trên có thể bôi hoặc phun nhiều lớp, cuối cùng là in ở nhiệt
độ cao và áp suất khác nhau, phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng mà công nghệ
lựa chọn phương pháp thao tác khác nhau cho phù hợp.
Đối với da
phải cải tạo trước khi trau chuốt, phải xử lý bằng phương pháp ngâm tấp và dùng
giấy nháp đánh bề mặt, khi ngâm tấp có các hóa chất chủ yếu đó là Encryl và
dung môi hữu cơ. Các loại da mặt cất xấu phải qua công đoạn cải tạo bằng phương
pháp dùng giấy nháp đánh phớt bề mặt sau đó da được ngâm với dung dịch hóa chất
nêu trên nhằm tạo cho da có mặt cật bằng, tiếp đó đem sấy khô và dùng giấy nháp
đánh lại để hóa chất trau chuốt bề mặt da đạt được yêu cầu chất lượng tốt hơn.
* Thiết bị
Các thiết bị
cần thiết cho qua trình thuộc da là: foulons, máy nạo thịt, máy xẻ, máy bào,
máy ép nước, máy ty da, máy vò mềm, máy in, máy đánh nháp, máy đánh bóng, máy
sấy chân không. trong đó quan trọng là:
+ Máy nạo
thịt: là máy dùng để loại bỏ những tổ chức dưới da tạo điều kiện cho hóa chất
xuyên vào sợi da tốt hơn.
+ Máy xẻ,
máy bào: có tác dụng điều chỉnh chiều dày tấm da đảm bảo độ dày đồng đều nhất
định, giảm sự tiêu hao của một số hóa chất trong khi thuộc và làm tăng khả năng
sử dụng của sản phẩm.
+ Foulons:
giúp làm tăng quá trình xuyên thấu và kết hợp của hóa chất vào da tạo sự phân
bổ đồng đều trên và trong toàn bộ tấm da.
+ Máy vò
mềm: tạo cho da có độ xốp và độ mềm mại đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng khác
nhau của khách hàng.
+ Máy in:
dùng để trang trí bề mặt làm tăng tính thẩm mĩ của da thuộc sau khi hoàn thành.
Hy vọng qua bài viết các bạn có thể hiểu thêm về công nghệ thuộc da, chính sự cầu kì trong khâu xử lý đến lúc thành hình tạo nên sự sang trọng và độ "chất" của những sản phẩm da mà chúng ta đang sử dụng.
Hy vọng qua bài viết các bạn có thể hiểu thêm về công nghệ thuộc da, chính sự cầu kì trong khâu xử lý đến lúc thành hình tạo nên sự sang trọng và độ "chất" của những sản phẩm da mà chúng ta đang sử dụng.
0 comments:
Post a Comment